Hội nhập – câu chuyện nóng bỏng cần nhận được sự giải quyết

Có lẽ chưa bao giờ câu chuyện hội nhập lại trở nên nóng bỏng như hiện nay. Việc thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015 có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hội nhập ASEAN. Với việc tự do hóa hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và dòng vốn, AEC được kỳ vọng sẽ đem lại cơ hội cho sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính và kinh tế của các nước trong AEC nói chung và Việt Nam nói riêng.

Theo lộ trình đã cam kết, Việt Nam sẽ phải mở cửa, xóa bỏ các hạn chế trong ngành ngân hàng, bảo hiểm và thị trường vốn. Với việc thực hiện lộ trình cam kết từ AEC trong lĩnh vực tài chính, thị trường tài chính Việt Nam sẽ liên thông với thị trường các nước trong AEC, mang lại nhiều cơ hội song cũng đặt ra không ít thách thức đối với thị trường tài chính trong nước.

Theo thông tin từ trung tâm WTO của VCCI, tính đến cuối tháng 8/2015, các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký kết là 11 (trong đó bao gồm: ASEAN-AEC, ASEAN-Trung Quốc, Việt Nam-Liên minh kinh tế Á-Âu, …), đang đàm phán là 5 (trong đó bao gồm: TPP, Việt Nam-EU, ….) và đang xem xét là hiệp định giữa ASEAN và Canada.

Ngoài ra, theo cam kết trong WTO, các ngân hàng thương mại (NHTM) nước ngoài được phép thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài hoặc chi nhánh tại Việt Nam khi đáp ứng các điều kiện về tổng mức tài sản tối thiểu. Từ ngày 01/01/2011, chi nhánh của ngân hàng nước ngoài đã được phép nhận tiền gửi Việt Nam đồng (VNĐ) ở mức tương tự các ngân hàng trong nước. Nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần của các NHTM cổ phần của Việt Nam hay các ngân hàng quốc doanh của Việt Nam được cổ phần hóa, tuy nhiên tổng số cổ phần do phía nước ngoài sở hữu không quá 30% vốn điều lệ của các NHTMtrong nước.

Với sự hội nhập mạnh mẽ trong thời gian vừa qua trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực ngân hàng, các NHTM cần chuẩn bị những gì để tăng tính cạnh tranh của NHTM trong nước so với các ngân hàng nước ngoài khi các ngân hàng này sẽ tiếp tục vào Việt Nam ngày càng nhiều trong thời gian tới?

Tăng cường vốn điều lệ

Tuy các NHTM đã và đang có kế hoạch tăng vốn để từ đó đạt được sự phát triển nhờ quy mô so với các ngân hàng nước ngoài, các NHTM trong nước vẫn có số vốn điều lệ còn nhỏ bé so với yêu cầu phát triển để đạt lợi nhuận và để chuẩn bị hội nhập trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.

Hiện nay, trong số các ngân hàng thương mại vẫn có khoảng chục ngân hàng vốn điều lệ dưới 4.000 tỷ, trong đó 6 ngân hàng vốn tròn 3.000 tỷ.

Trong hệ thống, Vietinbank có vốn điều lệ cao nhất với hơn 37.200 tỷ. Tới đây, PGBank sẽ sáp nhập vào Vietinbank, giúp nguồn vốn sẽ tăng lên khoảng 41.000 tỷ đồng (tương đương gần 1,8 tỷ USD tính theo tỷ giá của VCB đến ngày 8/9/2015). Tiếp đến là BIDV với vốn điều lệ tăng lên 34.000 tỷ đồng sau khi nhận sáp nhập MHB. Agribank có vốn điều lệ hơn 29.600 tỷ và Vietcombank có vốn hơn 26.600 tỷ. Bốn ngân hàng này đang dẫn đầu hệ thống, và cao gấp hơn 2 lần vốn điều lệ của các ngân hàng cổ phần tư nhân top sau.

Tính đến thời điểm cuối tháng 8/2015, vốn điều lệ của các ngân hàng là từ 133 triệu USD đến gần 1,8 tỷ USD. Đây là số vốn mà chúng ta không thể so sánh với các ngân hàng nước ngoài khi mà số vốn của họ đang được duy trì ở mức nhiều tỷ USD (ví dụ như, Ngân hàng Mitsubishi UFJ có số vốn lên đến 1.770 tỷ USD, Ngân hàng United Overseas Bank của Singapore 13,4 tỷ SGD, …). Rõ ràng đây là một vị thế rất thấp của các NHTM Việt Nam trên tiến trình hội nhập.

Cho nên, việc tiếp tục tăng vốn điều lệ của các NHTM trong nước là vô cùng cần thiết trong thời gian tới nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, giảm rủi ro, có điều kiện thu hút thêm vốn, phát triển nhân lực, đầu tư công nghệ hiện đại, mở rộng mạng lưới, tăng cường cơ sở vật chất, tiếp thu kinh nghiệm quản trị điều hành theo chuẩn mực quốc tế và thông lệ của các Ngân hàng hiện đại trên thế giới. Ngoài ra, với tiềm lực tài chính lớn, ngân hàng cũng có điều kiện vượt qua những các bất ổn của môi trường kinh doanh khi mà Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với các nền kinh tế trên thế giới.

Nâng cao chất lượng tín dụng

Để nâng cao chất lượng tín dụng, các NHTM cần xây dựng riêng cho mình một hệ thống quản lý rủi ro tín dụng chặt chẽ hơn, chủ yếu bao gồm:

– Xác lập mục tiêu tín dụng trong đó mức độ rủi ro từ hoạt động tín dụng phải đo lường được. Đồng thời, chất lượng của dự nợ tín dụng không chỉ được quan tâm ở tài sản có nội bảng mà còn được chú ý ở các khoản mục tài sản ngoại bảng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.

– Xây dựng, cập nhật chiến lược và chính sách quản lý rủi ro tín dụng, phù hợp với các quy định mới của NHNN và ngày càng phù hợp hơn với các chuẩn mực quản trị rủi ro quốc tế.

Bên cạnh đó, tích cực xử lý nợ xấu cũng nhằm giúp nâng cao chất lượng tín dụng. Để từng bước xử lý nợ xấu một cách bền vững, hạn chế nợ xấu gia tăng nhằm một mặt tăng cường chất lượng tín dụng mặt khác giúp khơi thông dòng vốn trong hệ thống ngân hàng, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, thúc đẩy tăng trưởng tín dụng và hỗ trợ vốn tích cực cho nền kinh tế, các NHTM cần chú trọng chủ động phối hợp với khách hàng vay để cơ cấu lại nợ, giãn thời gian trả nợ và xem xét giảm lãi suất một cách hợp lý cho khách hàng có khó khăn tài chính tạm thời, có chiều hướng cải thiện sản xuất kinh doanh tích cực, được đánh giá có khả năng trả nợ theo thời gian cơ cấu lại nợ theo đúng quy định tại Thông tư 02/2013 và Thông tư 09/2014 của NHNN; tăng cường hiệu quả, hiệu lực công tác thanh tra, giám sát nội bộ ngân hàng để bảo đảm ngân hàng tuân thủ đúng các quy định về hoạt động ngân hàng, đặc biệt là quy định về cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro và quy định về an toàn hoạt động tín dụng.

Đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng

Các ngân hàng cần luôn có ý thức “làm mới” mình để đáp ứng nhu cầu hội nhập thông qua việc đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, ứng dụng công nghệ hiện đại. Nhằm đáp ứng được yêu cầu cạnh trạnh trong thời kỳ mới, đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ theo hướng kết hợp việc đẩy mạnh những sản phẩm dịch vụ truyền thống đồng thời khai thác phát triển những sản phẩm mới như các sản phẩm phái sinh, tăng cường thu hút nguồn kiều hối trên cơ sở phối hợp với các công ty xuất khẩu lao động, các công ty dịch vụ kiều hối, tổ chức chuyển tiền ở nước ngoài, các ngân hàng đại lý nước ngoài, … Ngân hàng cần có chính sách khai thác và tạo điều kiện thuận lợi phát triển dịch vụ chuyển tiền kiều hối qua hệ thống ngân hàng; triển khai dịch vụ quản lý tài sản, ủy thác đầu tư, cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng, …

Đa dạng hóa sản phẩm là điểm mạnh và mũi nhọn để phát triển dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ ngân hàng cá nhân. Trong đó, tập trung vào những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, có đặc điểm nổi trội trên thị trường nhằm tạo sự khác biệt trong cạnh tranh, tận dụng các kênh phân phối mới để đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng và phát triển tín dụng tiêu dùng.

Phát triển và mở rộng các sản phẩm dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt nhằm phát huy hiệu quả và tính năng kỹ thuật của công nghệ mới, góp phần hạn chế giao dịch tiền mặt bất hợp pháp, nhanh chóng nâng cao tính thanh khoản của VNĐ và hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. Đẩy mạnh các dịch vụ tài khoản tiền gửi với thủ tục đơn giản, an toàn nhằm thu hút nguồn vốn của cá nhân trong thanh toán và phát triển dịch vụ thanh toán thẻ, séc thanh toán cá nhân, đẩy mạnh huy động vốn qua tài khoản tiết kiệm.

Hợp tác liên kết phát triển với các đối tác có nhiều lợi thế về khách hàng, mạng lưới và công nghệ đặc biệt sự liên kết với các đối tác là ngân hàng nước ngoài để phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ, chuyển tiền kiều hối, liên kết thẻ,…

Bên cạnh đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng là vấn đề sống còn trong cạnh tranh của các NHTM. Để nâng cao chất lượng dịch vụ, các ngân hàng cần chú trọng các biện pháp như:

– Nâng cao trình độ nghiệp vụ, kỷ năng khai thác dịch vụ, thái độ phục vụ cho đội ngũ cán bộ, nhân viên của mình.

– Hoàn thiện các quy trình nghiệp vụ.

– Tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát và quản lý rủi ro trong toàn ngân hàng.

– Tăng cường hoạt động tiếp thị và chăm sóc khách hàng, nhằm quảng bá, tiếp thị các sản phẩm dịch vụ và tăng cường chuyển tải thông tin tới công chúng nhằm giúp khách hàng có thông tin cập nhật về năng lực và uy tín của ngân hàng, nắm được cách thức sử dụng và lợi ích của các sản phẩm dịch vụ ngân hàng.

Đào tạo phát triển nguồn nhân lực ngân hàng

Để có thể đáp ứng tốt yêu cầu cạnh tranh trong điều kiện hội nhập, nhân sự không những phải đạt yêu cầu về số lượng mà phải đảm bảo về chất lượng, không chỉ ở nhân viên tác nghiệp mà cả đối với nhân sự quản lý. Vì chỉ có nhân lực đủ trình độ mới thì mới có thể vận hành tốt hệ thống.

Để có được một lực lượng nhân sự đảm bảo cả về chất và lượng, các NHTM cần xây dựng một chiến lược phát triển nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu phát triển của mình, trong đó bao gồm:

– Cơ cấu, sắp xếp, bố trí cán bộ có năng lực, trình độ, kinh nghiệm thực tế phù hợp với yêu cầu hoạt động kinh doanh trước mắt cũng như lâu dài. Đồng thời tăng cường tuyển dụng mới những lao động trẻ, năng động để góp phần trẻ hoá đội ngũ lao động.

– Nghiên cứu áp dụng công nghệ thông tin hiện đại trong quản lý sử dụng nhân lực có hiệu quả, đánh giá nhân viên gắn liền với tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp, lấy hiệu quả công việc làm thước đo chủ yếu, coi trọng sử dụng nhân tài và khuyến khích tài năng nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực trong từng giai đoạn phát triển.

– Tập trung đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, năng lực quản lý điều hành, kiến thức ngoại ngữ, khả năng ứng dụng công nghệ hiện đại,… từng bước nâng cao chất lượng nguồn nhân lực một cách đồng đều và vững chắc theo hướng vừa chuyên sâu vừa tổng hợp, có khả năng cạnh tranh cao, luôn hướng tới khách hàng.

– Cải thiện đổi mới chính sách duy trì nguồn nhân lực như về chế độ tiền lương, chế độ phúc lợi,… nhằm động viên nhân viên tận tâm, nhiệt thành với công việc, nâng cao năng suất làm việc.

– Có chính sách thu hút các chuyên gia, nhân viên giỏi và giữ chân được những đối tượng này thông qua các chế độ đãi ngộ tốt như lương, thưởng hấp dẫn, cơ hội thăng tiến.

Tựu chung lại, trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng trong lĩnh vực tài chính ngân hàng hiện nay, các NHTM cần tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh trên chính thị trường trong nước nhằm tiếp tục duy trì những thị phần đã có và tiếp tục phát triển thị trường mới khi có đủ điều kiện thuận lợi bằng bốn giải pháp như đã nêu.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *